Lịch sử Bagdad

Nguồn gốc

Ngày 30 tháng 7, 762, khalip Al'Mamun xây dựng thành phố. Mansur tin rằng Baghdad là một thành phố lý tưởng để trở thành thủ phủ đế chế Hồi giáo dưới thời Abbasids.[4] Mansur yêu thành phố này đến mức ông đã từng nói: "Đây thực sự là thành phố mà ta phải tìm ra, nơi ta phải sống và nơi mà con cháu ta sẽ ngự trị sau này."[5] Sự phát triển của thành phố được tạo điều kiện bởi vị trí địa lý thuận lợi cả về quân sự lẫn kinh tế (dọc sông Tigris tới biển và đông tây Địa Trung Hải tới phần còn lại của Châu Á. Hội chợ thương mại hàng tháng được tổ chức tại vùng này. Một lý do nữa lý giải vì sao Baghdad lại có địa thế thuận lợi là do sự dồi dào về nguồn nước và khí hậu khô. Nguồn nước, thứ rất khan hiếm trong thời kì này, có mặt ở cả phía bắc và phía nam cổng thành phố, cung cấp đầy đủ nhu cầu của người dân.

Baghdad đã làm lu mờ Ctesiphon, thủ phủ trước đây của đế chế Ba Tư, 30 km về phía Đông Nam. Thành phố này đã được những người Hồi Giáo cai quản từ năm 637 nhưng lại nhanh chóng bị bỏ hoang sau khi Baghdad được tìm ra. Babylon bị bỏ hoang từ thế kỉ thứ 2 trước công nguyên, nằm 90 km về phía Nam.

Xây dựng

Từ những năm đầu tiên thành phố đã được coi như Thiên đường trong kinh Qu'ran.[6] Bốn năm trước khi Baghdad được xây dựng, vào năm 758, Mansur đã tập hợp những nhà kĩ sư, những người chuyên vẽ bản đồ, những thợ xây dựng từ khắp nơi trên thế giới đến để thiết kế thành phố. Hơn 100.000 thợ xây dựng đã đến thiết kế thành phố; rất nhiều người đã chia sẻ tiền lương của mình để bắt đầu xây dựng thành phố vĩ đại này.[7] Khung thành phố là 2 hình bán nguyệt lớn đường kính khoảng 19 km (12 dặm). Tháng 7 được lựa chọn để bắt đầu thi công vì 2 nhà thiên văn học, Naubakht AhvazMashallah tin rằng thành phố nên được xây dựng theo cung Sử tử.[8] Cung Sư Tử rất quan trọng vì nó là thành phần của lửa, biểu tưởng cho năng suất, sự kiêu hãnh và sự phát triển. Những viên gạch dùng để xây dựng thành phố đều 18 inches cả bốn mặt.

Những bức tường bao quanh

Bốn bức tường xung quanh Baghdad được đặt tên Kufa, Basra, Khurasan, và Damascus. Những tên này được đặt theo địa danh mà mỗi cánh cổng hướng về. Khoảng cách giữa mỗi cánh cổng này đều ít hơn 1.5 dặm. Mỗi cổng có 2 cửa làm bằng sắt. Vì những cánh cổng này rất nặng nên cần vài người đế đóng hoặc mở chúng.

Cung điện Cổng vàng

Ở chính giữa quảng trường trung tâm là cung điện cổng vàng. Cung điện là nơi ở của khalip và gia đình của ông. Ở chính giữa của tòa nhà là một mái vòm xanh cao 39m. Xung quanh cung điện là nơi dạo mát, tòa nhà bên bờ sông nơi chỉ có khalip là có thể cưỡi ngựa tới. Thêm vào đó, cung điện ở gần những lâu đài và dinh thự của những người có quyền thế khác. Gần cổng Syria là nơi ở của những người gác cổng. Tòa nhà đó được xây dựng bởi gạch và cẩm thạch. Quản gia của cung điện sống ở phía sau của tòa nhà còn người chỉ huy lính gác lại sống ở phía trước. Vào năm 813, sau cái chết của khalip Amin, cung điện không còn được dùng làm nơi sống của khalip và gia đình.

Dạng tròn là theo kiểu Ả rập. Hai nhà thiết kế được thuê bởi Al-Mansur là Naubakht, một tín đồ đạo thờ lửa, người đã đặt ngày khởi công thành phố dựa theo thiên văn học, và Mashllah, một người Do thái đến từ Khorasan, Iran.

Toàn cảnh khu phố cổ Babylon, cách Baghdad 85 km (53 dặm) về phía Nam.

Đế quốc Ottoman đô hộ

Vào thế kỷ 16, Đế chế Ottoman từ Thổ Nhĩ Kỳ thôn tính vùng đất này và Bagdad trở thành một thành phố thương mại quan trọng trong đế chế. Bagdad được giải phóng trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, khi quân Đồng Minh tràn vào Bagdad và Đế chế Ottoman bại trận.

Thế kỷ 20 và 21

Baghdad và miền nam Iraq vẫn còn dưới quyền cai trị của Ottoman cho đến năm 1917, sau đó bị Anh đánh bại trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Năm 1920, Baghdad trở thành thủ đô của Uỷ nhiệm của Anh cho Mesopotamia và sau khi giành được độc lập năm 1932 thì trở thành thủ đô của Iraq. Dân số của thành phố tăng từ 145.000 năm 1900 lên tới 580.000 vào năm 1950. Trong thời gian ủy nhiệm, Baghdad đã có một phần đáng kể cộng đồng người Do Thái của thành phố này, chiếm một phần tư dân số của thành phố.

Ngày 1 tháng 4 năm 1941, các thành viên của "Quảng trường Vàng" và Rashid Ali đã tổ chức một cuộc đảo chính ở Baghdad. Rashid Ali đã xây dựng một chính phủ thân [pro] [[Anh Quốc] Ý] để thay thế chính phủ thân Anh của Nhiếp chính quyền Abd al-Ilah | Abdul Ilah ]]. Vào ngày 31 tháng 5, sau cuộc Chiến tranh Anglo-Iraqi và sau khi Rashid Ali và chính phủ của ông chạy trốn, Thị trưởng Baghdad đầu hàng quân đội Anh và Liên bang.

Vào ngày 14 tháng 7 năm 1958, các thành viên của quân đội Iraq, theo Abd al-Karim Qasim, Cuộc cách mạng ngày 14 tháng 7 đã tiến hành một cuộc đảo chánh để lật đổ Vương quốc Iraq. Vua Faisal II, nguyên Thủ tướng Nuri as-Said, cựu hoàng tử Abd al-Ilah, các thành viên của gia đình hoàng gia, và những người khác bị giết chết tàn bạo trong cuộc đảo chính. Nhiều thi thể của nạn nhân sau đó đã được kéo qua các đường phố của Baghdad.

Hình vuông Tahrir ở Khu thương mại Baghdad

Trong những năm 1970, Baghdad trải qua giai đoạn thịnh vượng và tăng trưởng nhờ sự gia tăng mạnh mẽ giá dầu, xuất khẩu chính của Iraq. Cơ sở hạ tầng mới bao gồm hệ thống thoát nước hiện đại, hệ thống nước và đường cao tốc đã được xây dựng trong giai đoạn này. Kế hoạch tổng thể của thành phố (1967, 1973) được cung cấp bởi văn phòng kế hoạch Ba Lan Miastoprojekt-Kraków, trung gian của Polservice. Tuy nhiên, Chiến tranh Iran-Iraq năm 1980 là một thời điểm khó khăn cho thành phố, vì tiền đã bị chuyển bởi Saddam Hussein cho quân đội và hàng ngàn cư dân đã bị giết. Iran đưa ra một loạt các cuộc tấn công tên lửa chống lại Baghdad để trả đũa cho những vụ bắn phá liên tục của Saddam Hussein ở các khu dân cư của Tehran.

Nơi đây được biết đến với cuộc Chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 do tổng thống Hoa Kỳ Bush (cha) phát động nhằm lật đổ chế độ độc tài của tổng thống Saddam Hussein nhưng không thành. Năm 2003, một lần nữa lại nổ ra cuộc Chiến tranh Iraq, lần này là do tổng thống Bush (con) phát động và đã lật đổ được Saddam Hussein. Thành phố đã bị tàn phá nặng nề sau hai cuộc chiến trah này.